Tiệt khuẩn là gì? Các công bố khoa học về Tiệt khuẩn

Tiệt khuẩn là quá trình loại bỏ hoặc giảm đáng kể số lượng vi khuẩn, vi rút, nấm hoặc các tác nhân gây bệnh khác khỏi một môi trường cụ thể. Quá trình này có th...

Tiệt khuẩn là quá trình loại bỏ hoặc giảm đáng kể số lượng vi khuẩn, vi rút, nấm hoặc các tác nhân gây bệnh khác khỏi một môi trường cụ thể. Quá trình này có thể được thực hiện bằng cách sử dụng các chất kháng sinh, chất diệt khuẩn hoặc phương pháp vật lý như nhiệt độ cao, áp suất cao hoặc tia tử ngoại. Tiệt khuẩn được thực hiện để ngăn chặn và kiểm soát sự lây lan của các tác nhân gây bệnh và bảo vệ sức khỏe con người.
Tiệt khuẩn, còn được gọi là quá trình diệt khuẩn hay khử khuẩn, là quá trình giảm số lượng vi khuẩn, vi rút, nấm, ký sinh trùng hoặc tác nhân gây bệnh khác đến mức không gây nguy hiểm hoặc không thể thực hiện sự tồn tại và sinh sản trong một môi trường cụ thể.

Có nhiều phương pháp tiệt khuẩn khác nhau được sử dụng trong các lĩnh vực như y học, công nghiệp thực phẩm, môi trường, và hợp chất hóa học.

1. Tiệt khuẩn hóa học: Sử dụng các chất diệt khuẩn hoặc kháng sinh để tiêu diệt hoặc ngăn chặn sự phát triển của vi sinh vật. Ví dụ, trong y học, các loại thuốc kháng sinh được sử dụng để tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh.

2. Tiệt khuẩn vật lý: Đây là sử dụng các vòng lặp nhiệt, áp suất cao, tia tử ngoại, tia X, hoặc các phương pháp khác để tiêu diệt hoặc làm suy yếu vi sinh vật. Ví dụ, nhiệt độ cao có thể được sử dụng để tiệt trùng các dụng cụ y tế và thực phẩm.

3. Tiệt khuẩn bằng quang học: Sử dụng ánh sáng UV-C, một bước sóng ngắn của ánh sáng tự nhiên, để tiêu diệt vi khuẩn và vi rút. Công nghệ này thường được sử dụng trong các bệnh viện, các phòng thí nghiệm, và các hệ thống xử lý nước.

Sự tiệt khuẩn quan trọng để ngăn chặn sự lây lan của bệnh tật và bảo vệ sức khỏe con người. Trong các môi trường như các bệnh viện, nhà máy thực phẩm, hoặc các hệ thống nước cung cấp, việc thực hiện các quy trình tiệt khuẩn thường xuyên là cực kỳ quan trọng để đảm bảo an toàn cho tất cả mọi người.
Tiệt khuẩn bằng chất hoá học là phương pháp tiệt khuẩn thông qua việc sử dụng các chất diệt khuẩn hoặc kháng sinh. Các chất diệt khuẩn thường là các hợp chất hoá học có khả năng tiêu diệt hoặc ngăn chặn sự phát triển của vi sinh vật. Chúng có thể được sử dụng để xử lý nước uống, các bề mặt, thiết bị y tế, thực phẩm, và các sản phẩm tiêu dùng khác.

Các chất diệt khuẩn thường được chia thành hai loại chính là diệt khuẩn tác động nhanh và diệt khuẩn tác động dài. Diệt khuẩn tác động nhanh hoạt động nhanh chóng để giết chết vi sinh vật trong thời gian ngắn, trong khi diệt khuẩn tác động dài tác động một cách lâu dài và giúp ngăn chặn sự tái phát của vi sinh vật trong thời gian dài.

Trong hoạt động y tế, các chất diệt khuẩn thường được sử dụng để tiệt trùng bề mặt, dụng cụ y tế và hỗ trợ trong phẫu thuật. Các chất diệt khuẩn cũng được sử dụng để xử lý nước uống và thực phẩm để đảm bảo an toàn hóa chất.

Tuy nhiên, việc sử dụng chất diệt khuẩn cần được thực hiện cẩn thận và theo hướng dẫn, để tránh gây ra tác dụng phụ và kháng chất đối với vi sinh vật. Các chất diệt khuẩn cũng phải tuân thủ các quy định và hướng dẫn về an toàn và môi trường.

Ngoài ra, cần chú ý rằng một số vi sinh vật có khả năng phát triển kháng chất với các chất diệt khuẩn, do đó cần thiết để thực hiện các biện pháp kiểm soát kháng chất để đảm bảo hiệu quả của quá trình tiệt khuẩn.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "tiệt khuẩn":

Hệ thống tiết protein loại III trong các tác nhân gây bệnh vi khuẩn ở động vật và thực vật Dịch bởi AI
Microbiology and Molecular Biology Reviews - Tập 62 Số 2 - Trang 379-433 - 1998
TÓM TẮT

Các tác nhân gây bệnh thực vật và động vật gram âm khác nhau sử dụng một hệ thống tiết protein độc lập với sec như một cơ chế gây độc cơ bản. Ngày càng rõ ràng rằng các hệ thống tiết loại III được gọi là này tiêm (đưa vào) protein vào trong tế bào chất của tế bào eukaryotic, nơi mà các protein được đưa vào hỗ trợ cho quá trình gây bệnh của vi khuẩn bằng cách can thiệp đặc hiệu vào quá trình truyền tín hiệu của tế bào chủ và các quá trình tế bào khác. Theo đó, một số hệ thống tiết loại III được kích hoạt bởi sự tiếp xúc của vi khuẩn với bề mặt tế bào chủ. Các hệ thống tiết loại III riêng lẻ dẫn hướng cho việc tiết và chuyển vị một loạt các protein không liên quan, điều này tạo ra các kiểu hình gây bệnh đặc hiệu cho từng loài. Ngược lại với các yếu tố virulence được tiết ra, hầu hết trong số 15 đến 20 protein liên kết màng tạo thành hệ thống tiết loại III là được bảo tồn giữa các tác nhân gây bệnh khác nhau. Hầu hết các thành phần màng trong của hệ thống tiết loại III cho thấy tính tương đồng bổ sung với các protein tổng hợp cấu trúc đuôi, trong khi một yếu tố màng ngoài bảo tồn tương tự như các secretin từ loại II và các con đường tiết khác. Các chaperone có cấu trúc bảo tồn mà liên kết cụ thể với từng protein được tiết ra đóng vai trò quan trọng trong việc tiết protein loại III, rõ ràng bằng cách ngăn chặn các tương tác sớm không mong muốn của các yếu tố được tiết ra với các protein khác. Các gen mã hóa các hệ thống tiết loại III được nhóm lại, và nhiều bằng chứng cho thấy rằng các hệ thống này đã được tiếp nhận thông qua chuyển gen ngang trong quá trình tiến hóa. Sự biểu hiện của các hệ thống tiết loại III được điều chỉnh phối hợp in đáp ứng với các kích thích môi trường của tế bào chủ bởi các mạng lưới của các yếu tố phiên mã. Tổng quan này bao gồm sự so sánh về cấu trúc, chức năng, điều hòa và tác động của các hệ thống tiết loại III lên tế bào chủ trong các tác nhân gây bệnh động vật Yersinia spp., Pseudomonas aeruginosa, Shigella flexneri, Salmonella typhimurium, Escherichia coli gây bệnh đường ruột và Chlamydia spp. cũng như các tác nhân gây bệnh thực vật Pseudomonas syringae, Erwinia spp., Ralstonia solanacearum, Xanthomonas campestris và Rhizobium spp.

SỰ HÌNH THÀNH, KIẾN TRÚC VÀ CHỨC NĂNG CỦA CÁC HỆ THỐNG TIẾT RA LOẠI IV CỦA VI KHUẨN Dịch bởi AI
Annual Review of Microbiology - Tập 59 Số 1 - Trang 451-485 - 2005

Các hệ thống tiết ra loại IV (T4S) có mối quan hệ tổ tiên với các máy conjugation của vi khuẩn. Những hệ thống này lắp ráp như một kênh chuyển vị, và thường cũng như một sợi bề mặt hoặc protein bám dính, tại màng của vi khuẩn Gram âm và Gram dương. Những bào quan này trung gian cho việc chuyển DNA và các chất nền protein đến các tế bào mục tiêu prokaryotic và eukaryotic có nguồn gốc phân loại khác nhau. Nhiều đặc điểm cơ bản của T4S đã được biết đến, bao gồm cấu trúc của các đơn vị máy, các bước lắp ráp máy, các chất nền và cơ chế nhận diện chất nền, cũng như hậu quả của việc chuyển vị chất nền. Một thành tựu gần đây cũng đã cho phép xác định lộ trình chuyển vị cho một chất nền DNA thông qua một hệ thống T4S của một vi khuẩn Gram âm. Bài đánh giá này nhấn mạnh động lực của việc lắp ráp và chức năng của các hệ thống conjugation mẫu cũng như hệ thống T4S VirB/D4 của Agrobacterium tumefaciens. Chúng tôi cũng tổng hợp các đặc điểm nổi bật của các hệ thống chuyển vị hiệu ứng ngày càng được nghiên cứu của các tác nhân gây bệnh ở động vật có vú.

Phân tích gen sigE của Streptomyces coelicolor tiết lộ sự tồn tại của một phân họ các yếu tố sigma polymerase RNA của vi khuẩn eubacterial liên quan đến điều hòa các chức năng ngoại tế bào. Dịch bởi AI
Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 91 Số 16 - Trang 7573-7577 - 1994

Sigma E, một yếu tố sigma polymerase RNA có trọng lượng phân tử 28,000, đã được xác định trước đó nhờ khả năng điều hướng phiên mã từ promoter P2 của gen agarose (dagA) của Streptomyces coelicolor. Một mồi oligonucleotide thoái hóa, được thiết kế từ chuỗi N-đầu của sigma E tinh khiết, đã được sử dụng để phân lập gen sigma E (sigE). Chuỗi dự đoán của sigma E cho thấy sự tương đồng lớn nhất với chuỗi của bảy protein khác: CarQ của Myxococcus xanthus, AlgU của Pseudomonas aeruginosa, HrpL của Pseudomonas syringae, sigma E của Escherichia coli, CnrH của Alcaligenes eutrophus, FecI của E. coli, và SigX của Bacillus subtilis, là một protein chưa được xác định chức năng. Tám protein này xác định một phân họ của các yếu tố polymerase RNA của vi khuẩn eubacterial đủ khác biệt so với các sigma khác mà, trong nhiều trường hợp, chúng không được xác định bởi các phương pháp tìm kiếm bằng tương đồng tiêu chuẩn. Thông tin hiện có cho thấy tất cả chúng đều điều hòa các chức năng ngoại tế bào và hoạt động như các phân tử tác động đáp ứng với các kích thích ngoại tế bào. CnrH của A. eutrophus dường như là một yếu tố mã hóa trên plasmid.

HỆ THỐNG TIẾT ĐỘC PROTEIN LOẠI III TRONG CÁC VI KHUẨN GÂY BỆNH Ở THỰC VẬT VÀ ĐỘNG VẬT Dịch bởi AI
Annual Review of Phytopathology - Tập 36 Số 1 - Trang 363-392 - 1998

▪ Tóm tắt  Trong số nhiều cơ chế thú vị và tinh vi được sử dụng bởi các tác nhân gây bệnh vi khuẩn để làm suy yếu các vật chủ eukaryote là một lớp hệ thống tiết protein chuyên biệt (được gọi là hệ thống tiết protein loại III) mà trực tiếp chuyển giao các protein virulence của vi khuẩn vào bên trong tế bào chủ. Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra bốn đặc điểm quan trọng của các hệ thống tiết này. Thứ nhất, chúng rất phổ biến trong số các tác nhân gây bệnh vi khuẩn ở thực vật và động vật, và những đột biến ảnh hưởng đến việc tiết protein loại III thường loại bỏ hoàn toàn virulence của vi khuẩn. Thứ hai, ít nhất tám thành phần tiết loại III chia sẻ những tương đồng về trình tự với các thành phần của cơ chế lắp ráp roi, và các cấu trúc giống roi liên quan đến việc tiết loại III, mở ra khả năng rằng các hệ thống tiết này có nguồn gốc từ cơ chế lắp ráp roi được cho là cổ xưa hơn. Thứ ba, việc tiết loại III được kích hoạt in vivo khi tiếp xúc với các tế bào chủ. Thứ tư, cơ chế tiết loại III là độc lập với Sec và các protein tác động có thể sở hữu các tín hiệu nhắm mục tiêu dựa trên mRNA. Bài tổng quan này nhấn mạnh những điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống tiết loại III của các vi khuẩn gây bệnh mẫu được chọn ở thực vật và động vật.

Một protein tiết loại III của Burkholderia pseudomallei, BopE, hỗ trợ xâm nhập của vi khuẩn vào tế bào biểu mô và thể hiện hoạt tính trao đổi nucleotide guanine Dịch bởi AI
Journal of Bacteriology - Tập 185 Số 16 - Trang 4992-4996 - 2003
TÓM TẮT

Chúng tôi báo cáo sự đặc trưng của BopE, một protein tiết loại III, được mã hóa gần với locus Burkholderia pseudomallei bsa và có tính đồng dạng với Salmonella enterica SopE/SopE2. Sự bất hoạt của bopE đã làm giảm khả năng xâm nhập của vi khuẩn vào tế bào HeLa, cho thấy rằng BopE thúc đẩy sự xâm lấn. Phù hợp với ý tưởng này, BopE được biểu hiện trong các tế bào nhân thực dẫn đến những biến đổi trong khung xương tế bào dưới vỏ, và BopE tinh khiết cho thấy hoạt tính của yếu tố trao đổi nucleotide guanine đối với Cdc42 và Rac1 trong điều kiện in vitro.

#BopE #Burkholderia pseudomallei #protein tiết loại III #xâm nhập vi khuẩn #tế bào biểu mô #hoạt tính yếu tố trao đổi nucleotide guanine (GEF)
Sự hóa cảm của chi vi khuẩn phát quang Pseudomonas đối với dịch tiết từ hạt đậu nành trong môi trường thí nghiệm và đất trồng Dịch bởi AI
Canadian Journal of Microbiology - Tập 31 Số 6 - Trang 570-574 - 1985
Năm chủng Pseudomonas phát quang cư trú trên hạt (RW1 đến RW5) thể hiện khả năng hóa cảm đối với dịch tiết từ hạt đậu nành trong mao quản 1 μL được giữ trong 30 phút trong huyền phù vi khuẩn với mật độ 8.0 log CFU/mL trong phạm vi nhiệt độ từ 9 đến 41 °C. Dùng kỹ thuật thẩm tách (với ngưỡng phân tử bị giữ lại là 6000) dịch tiết làm mất sức hấp dẫn đối với RW1; trong khi đó, việc đun nóng dịch tiết ở 121 °C trong 15 phút không có ảnh hưởng gì. Một số amino acid có trong dịch tiết gây ra phản ứng hóa cảm từ RW1, và asparagine, threonine và valine với mức dộ như trong dịch tiết cũng hấp dẫn RW1 như dịch tiết. Không quan sát thấy sự hóa cảm của RW1 đối với đường có trong dịch tiết. RW1 đến RW5 chủ động di chuyển 1 cm về phía hạt đậu nành trong đất được chứng minh bằng một phương pháp mới. Một đột biến không di động của RW3 không di chuyển trong đất và không có sự di chuyển đáng kể nào được quan sát thấy khi không có sự hiện diện của hạt hoặc dịch tiết. Có thể rằng hiện tượng hóa cảm của Pseudomonas đối với dịch tiết hạt có thể là bước đầu trong việc vi khuẩn chiếm cư hạt và rễ trong đất.
#hóa cảm #Pseudomonas phát quang #dịch tiết hạt đậu nành #cư trú hạt #đất trồng
Đa dạng di truyền của các chủng Burkholderia pseudomallei lâm sàng: Lai ghép trừ bóc tách tiết lộ một tiền thực khuẩn thể đặc trưng Burkholderia mallei trong B. pseudomallei 1026b Dịch bởi AI
Journal of Bacteriology - Tập 186 Số 12 - Trang 3938-3950 - 2004
TÓM TẮT

Burkholderia pseudomallei là tác nhân gây bệnh melioidosis và là một mối đe dọa sinh học loại B. Trình tự bộ gen của B. pseudomallei K96243 đã được xác định gần đây, nhưng hầu như chưa có nhiều thông tin về sự đa dạng di truyền tổng thể của loài này. Kỹ thuật lai ghép trừ bóc tách đã được áp dụng để đánh giá sự biến đổi di truyền giữa hai chủng lâm sàng khác biệt của B. pseudomallei , 1026b và K96243. Nhiều yếu tố di động di truyền, bao gồm một thực khuẩn thể ôn hòa được gọi là φ1026b, đã được xác định trong các sản phẩm lai ghép trừ bóc tách đặc trưng cho 1026b. Thực khuẩn thể φ1026b được 1026b sản xuất tự phát và có phổ ký chủ hạn chế, chỉ nhiễm Burkholderia mallei . Nó có một đuôi không co giãn, một đầu đẳng hướng và một bộ gen dài 54,865 bp. Tính khảm của bộ gen φ1026b được tiết lộ khi so sánh với thực khuẩn thể φE125, một thực khuẩn thể đặc trưng cho B. mallei , được sản xuất bởi Burkholderia thailandensis . Các gen của φ1026b về đóng gói DNA, hình thái hóa đuôi, phân giải ký chủ, tích hợp và sao chép DNA gần như giống hệt với các gen tương ứng trong φE125. Ngược lại, các gen của φ1026b liên quan đến hình thái hóa đầu giống với các gen của thực khuẩn thể Pseudomonas putidaPseudomonas aeruginosa . Phù hợp với quan sát này, kính hiển vi điện tử vàng miễn dịch cho thấy rằng kháng huyết thanh toàn thân chống lại φE125 phản ứng với đuôi của φ1026b nhưng không với đầu. Kết quả được trình bày ở đây gợi ý rằng các chủng B. pseudomallei có sự không đồng nhất di truyền và các thực khuẩn thể là các thành tố chính đóng góp vào sự đa dạng bộ gen của loài này. Thực khuẩn thể được đặc tính hóa trong nghiên cứu này có thể là công cụ chẩn đoán hiệu quả để phân biệt B. pseudomalleiB. mallei , hai tác nhân đe dọa sinh học liên quan chặt chẽ.

#Burkholderia pseudomallei #melioidosis #thực khuẩn thể #đa dạng di truyền #lai ghép trừ bóc tách.
KHẢO SÁT TỶ LỆ KHÁNG KHÁNG SINH CỦA VI KHUẨN ESCHERICHIA COLI GÂY NHIỄM KHUẨN TIẾT NIỆU Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 510 Số 2 - 2022
Nhiễm trùng đường tiết niệu phổ biến hơn, nặng hơn và mang lại kết quả xấu hơn ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2. Nguyên nhân chủ yếu là do vi khuẩn đặc biệt vi khuẩn E. coli. Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát tỷ lệ E. coli gây nhiễm khuẩn tiết niệu ở bệnh nhân đái tháo đường và mức độ đề kháng của các chủng E. coli phân lập. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang, tất cả 295 bệnh nhân được chẩn đoán Đái tháo đường và được cấy nước tiểu, tại Khoa Nội tiết Bệnh viện Hữu Nghị Đa Khoa Nghệ An từ 01/2021 đến 04/2021. Kết quả: Tỷ lệ E. coli gây nhiễm khuẩn đường tiết niệu phân lập được chiếm 65,3% (17/26) trong tổng số chủng vi khuẩn. Tỷ lệ các chủng sinh ESBL là 47,4%. E.coli kháng với nhóm kháng sinh Quinolon từ 42,1 – 57,9%. Kháng với nhóm Cephalosphorin 42,1 – 73,7%; Ampicillin và Piperacilli 84,2%; Cotrimoxazol và Ampicillin/Sulbactam là 57,9%. Tuy nhiên các kháng sinh nhóm Carbapenem, Fosmicin và Amikacin còn nhạy cảm tốt với vi khuẩn E.coli với tỷ lệ > 95% -100%. Kết luận: E. coli dẫn đầu các căn nguyên gây nhiễm khuẩn tiết niệu ở bệnh nhân đái tháo đường và đề kháng với tất cả kháng sinh thử nghiệm với các mức độ khác nhau. Do đó giám sát thường xuyên về mức độ đề kháng kháng sinh của vi khuẩn đề giúp công tác kiểm soát nhiễm khuẩn, quản lý và sử dụng kháng sinh hiệu quả.
#E. coli #nhiễm khuẩn tiết niệu #đái tháo đường
TỶ LỆ NHIỄM VÀ TÍNH KHÁNG KHÁNG SINH CỦA VI KHUẨN GÂY NHIỄM KHUẨN TIẾT NIỆU Ở BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ ĐA KHOA NGHỆ AN NĂM 2020
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam - Tập 2 Số 34 - Trang 58-64 - 2021
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm xác định tỷ lệ nhiễm và tính kháng kháng sinh của các chủng vi khuẩn phân lập được từ bệnh phẩm nước tiểu của bệnh nhân đến khám và điều trị tại Bệnh viện Hữu nghị đa khoa Nghệ An năm 2020. Đối tượng và phương pháp: Các chủng vi khuẩn gây nhiễm khuẩn tiết niệu (NKTN) phân lập được tại bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An từ 1/2020 đến 12/2020. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: Trong 462 chủng vi khuẩn gây NKTN, E. coli chiếm tỷ lệ cao nhất (40,26%), đứng thứ hai:  P. aeruginosa (15,15%), tiếp theo: K. pneumoniae (12,99%) và Enterococcus sp (10,39%). E. coli đã kháng cephalosporine có tỷ lệ: 57,53 – 65,05%, quinolone (58,06 – 60,75%) nhưng vẫn còn nhạy cảm cao với carbapenem, fosfomycin (87,63 – 90,86%). Một nửa chủng E. coli sinh ESBL (Extended spectrum beta-lactamase). K. pneumoniae kháng nhóm cephalosporin, quinolone dao động từ 66,67% - 75%, kháng carbapenem (45 –50%). P. aeruginosa kháng các kháng sinh thử nghiệm từ 47,14% - 62,86%. Enterococcus sp. kháng các kháng sinh nhóm quinolone với tỷ lệ: 70,83%, kháng vancomycin: 8,33%. Chưa ghi nhận chủng Enterococcus kháng linezolid.   Kết luận: Các vi khuẩn gây NKTN thường gặp là E. coli, K. Pneumoniae, P. aeruginosa, Enterococcus sp. Các vi khuẩn phân lập được đã kháng các kháng sinh thường dùng với các mức độ khác nhau. Đặc biệt, các chủng vi khuẩn Gram âm kháng carbapenem, Gram dương kháng vancomycin.
#Nhiễm khuẩn tiết niệu #E. coli #P. aeruginosa #Enterococcus sp #Klebsiella
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH SỬ DỤNG KHÁNG SINH TRONG ĐIỀU TRỊ NHIỄM TRÙNG ĐƯỜNG TIẾT NIỆU TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA THỐNG NHẤT ĐỒNG NAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 523 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ các vi khuẩn gây bệnh, mức độ đề kháng của vi khuẩn và kết quả trong điều trị nhiễm trùng đường tiết niệu (NTĐTN) tại Bệnh viện Đa khoa Thống Nhất Đồng Nai. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả, hồi cứu trên 171 hồ sơ bệnh án (HSBA) có chẩn đoán NTĐTN từ 01/01/2020 đến 31/12/2020 được điều trị nội trú tại khoa Ngoại niệu Bệnh viện Đa khoa Thống Nhất Đồng Nai. Kết quả: Tuổi trung bình (TB) của mẫu nghiên cứu (51,7 ± 17,8) trong đó nữ chiếm tỷ lệ 52%. Trong tổng số mẫu nghiên cứu có 113 trường hợp (TH) 66,1% bệnh nhân có ít nhất 1 bệnh mắc kèm, tăng huyết áp gặp nhiều nhất 18,7%, các yếu tố gây phức tạp NTĐTN (bất thường cấu trúc hệ niệu chiếm tỉ lệ cao nhất 62,6%). Số BN lấy mẫu làm kháng sinh đồ (KSĐ) chiếm tỉ lệ 57,9%, kết quả mẫu cấy dương tính 48,5%, có 34 TH định danh ra 1 vi khuẩn (VK) và 2 TH định danh ra 2 VK, VK Gram (-) 73,7%, VK định danh ra được chủ yếu là Escherichia coli 39,5%, Proteus mirabilis 7,9%, Klebsiella pneumonia 7,9%, Pseudomonas aeruginosa 7,9%. Kết quả nghiên cứu cho thấy các VK này có tình trạng đề kháng cao với 1 số kháng sinh (KS): Escherichia coli kháng 100% cefazolin, cefotaxim, cefotetan, cefepim còn các KS khác cũng có tỷ lệ kháng trên 50% ampicillin, ceftriaxon, ceftazidim, ciprofloxacin… Kết quả điều trị BN được chẩn đoán đỡ giảm - xuất viện chiếm đa số. Kết luận: Nguyên nhân chủ yếu gây NTĐTN là do VK Gram (-): Escherichia coli, Proteus mirabilis, Klebsiella pneumonia, Pseudomonas aeruginosa.... Các VK này có tình trạng đề kháng cao với một số KS cefazolin, cefotaxim, ampicillin, ceftriaxon… Tình trạng đề kháng KS của VK ngày càng gia tăng nói chung và đặc biệt trong điều trị NTĐTN nói riêng. Chính vì vậy việc cung cấp thường xuyên tình hình đề kháng KS của VK là cần thiết cho các bác sĩ trong điều trị. Kết quả điều trị NTĐTN giảm – xuất viện chiếm tỉ lệ cao 97,1%.
#Nhiễm trùng đường tiết niệu #vi khuẩn #kháng sinh.
Tổng số: 60   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6